Diễn biến tiếp theo Không_kích_Doolittle

Số phận các thành viên đội bay mất tích

Trung tá James H. Doolittle (giữa) cùng các thành viên trong đội bay của mình cùng các sĩ quan Trung Quốc sau cuộc tấn công. Trung úy Richard Cole, đứng ngay bên phải Doolittle, hiện còn sống và từng tham dự cuộc Họp mặt Raider 2008.

Sau cuộc Không kích Doolittle, hầu hết các đội bay B-25 đã hạ cánh xuống Trung Quốc sau đó, và được an toàn là nhờ sự giúp đỡ của binh lính và thường dân Trung Hoa. Tuy nhiên, những người Trung Hoa tốt bụng giúp đỡ họ đã phải trả một giá đắt vì đã che chở những người Mỹ. Lục quân Nhật Bản đã bắt đầu Chiến dịch Chiết Giang-Giang Tây để hăm dọa người Trung Quốc vì đã giúp đỡ các phi công Hoa Kỳ. Quân Nhật đã giết hại đến khoảng 250.000 thường dân Trung Hoa trong khi truy lùng người của Doolittle.[29][30] Đội bay của hai máy bay với tổng cộng mười người đã không nhận được tin tức nào: bao gồm đội của Hallmark (chiếc thứ sáu) và của Farrow (chiếc cuối cùng). Vào ngày 15 tháng 8 năm 1942, thông qua Tổng Lãnh sự Thụy Sĩ tại Thượng Hải, người Mỹ được tin tám thành viên của các đội bay bị mất tích là tù nhân tại trụ sở cảnh sát của Nhật Bản tại thành phố này (hai thành viên khác tử nạn khi rơi máy bay). Ngày 19 tháng 10 năm 1942, Nhật Bản thông báo họ đã xét xử tám người và kết án tử hình, nhưng nhiều người trong số họ được giảm án còn chung thân; không có tên tuổi hay chi tiết nào khác được đưa ra trong tin tức được tường thuật qua phát thanh. Bộ máy tuyên truyền Nhật Bản chế nhạo cuộc không kích, gọi nó là "Cuộc không kích chẳng-làm-được-gì", và khoe khoang là nhiều chiếc B-25 đã bị bắn rơi. Trong thực tế, không có chiếc nào bị mất do các hoạt động thù địch.

Sau chiến tranh, toàn bộ câu chuyện về hai đội bay bị mất tích đã được làm sáng tỏ trong một tòa án xét xử tội phạm chiến tranh tại Thượng Hải. Phiên tòa được mở vào tháng 2 năm 1946 để xét xử bốn sĩ quan Nhật Bản vì đã ngược đãi tám thành viên đội bay bị bắt giữ. Hai thành viên còn thiếu, Trung sĩ William J. Dieter và Hạ sĩ Donald E. Fitzmaurice đã thiệt mạng khi chiếc B-25 của họ rơi ngoài khơi bờ biển Trung Quốc. Tám người còn lại, các trung úy Dean E. Hallmark, Robert J. Meder, Chase Nielsen, William G. Farrow, Robert L. Hite và George Barr cùng các hạ sĩ Corporals Harold A. Spatz và Jacob DeShazer bị bắt. Ngoài việc bị đánh đập và bị bỏ đói, những người này còn mắc phải chứng tiêu chảyphù thũng do hậu quả của tình trạng sống tồi tệ mà họ bị đối xử. Vào ngày 28 tháng 8 năm 1942, các phi công Hallmark và Farrow cùng xạ thủ súng máy Spatz bị người Nhật đưa ra xét xử giả mạo, cho dù họ không được biết về hình phạt dành cho họ. Ngày 14 tháng 10 năm 1942, ba người này được thông báo là họ sẽ bị xử tử vào ngày hôm sau. Lúc 16 giờ 30 phút ngày 15 tháng 10 năm 1942, họ được xe tải đưa đến Nghĩa trang Công cộng Số 1 ở ngoại vi thành phố Thượng Hải và bị xử bắn bởi một đội hành quyết.

Năm người còn lại tiếp tục bị giam giữ trong trại tập trung quân sự với chế độ ăn đói khát, và tình hình sức khỏe của họ sa sút nghiêm trọng. Đến tháng 4 năm 1943, họ được chuyển đến Nam Kinh, nơi mà vào ngày 1 tháng 12 năm 1943, Meder mất. Bốn người còn lại Nielsen, Hite, Barr và DeShazer cuối cùng nhận được sự chăm sóc có cải thiện đội chút từ những người giam giữ, và được cho một bản Kinh Thánh cùng một số ít sách vở khác. Họ đã sống sót cho đến khi được giải thoát bởi lực lượng Mỹ vào tháng 8 năm 1945. Bốn sĩ quan Nhật Bản bị xét xử tội ác chiến tranh đối với tám thành viên Doolittle đều bị xem là có tội: ba người bị kết án lao động khổ sai trong năm năm trong khi người thứ tư bị kết án chín năm. DeShazer sau cùng trở thành một nhà truyền đạo và quay trở lại Nhật Bản vào năm 1948, nơi ông hoạt động với tư cách này trong hơn 30 năm.

Trong nhóm này, hiện nay chỉ có Hite còn sống. Barr chết vì đột quỵ năm 1967, Nielsen mất năm 2007 và Jacob DeShazer qua đời ngày 15 tháng 3 năm 2008.

Một thành viên Doolittle khác bị mất trong nhiệm vụ này. Hạ sĩ Leland D. Faktor (thợ máy/xạ thủ trong đội bay của Gray) thiệt mạng khi tìm cách nhảy dù ra khỏi máy bay, ông là người duy nhất trong đội bay của mình tử trận.

Những phục vụ tiếp theo

Liền ngay sau trận không kích, Doolittle nói với các thành viên khác là ông tin với việc mất toàn bộ 16 chiếc máy bay, kèm với việc thiệt hại tương đối nhẹ mà chúng đã gây ra đối với các mục tiêu, cuộc tấn công này được xem là một thất bại và ông sẽ bị đưa ra tòa án quân sự một khi quay trở về được Hoa Kỳ. Thay vì vậy, cuộc không kích đã củng cố tinh thần cho người dân Mỹ đến mức Doolittle được Tổng thống Franklin D. Roosevelt trao tặng Huân chương Danh dự, và được thăng hàm vượt cấp từ Trung tá lên Chuẩn tướng, bỏ qua cấp Đại tá. Khi vị tướng vừa được thăng chức Doolittle đi thăm các cơ sở vừa được mở rộng của sân bay Eglin vào tháng 7 năm 1942 cùng với Đại tá Chỉ huy trưởng Grandison Gardner, tờ báo địa phương Okaloosa News-Journal, tại Crestview, Florida, trong khi đưa tin về sự hiện diện của ông, đã không hề đề cập đến việc huấn luyện tại Eglin lúc đó còn đang được giữ bí mật. Ông tiếp tục lãnh đạo Không lực 12 tại Bắc Phi, Không lực 15 tại khu vực Địa Trung Hải và Không lực 8 tại châu Âu trong ba năm tiếp theo sau.

Ngoài phần thưởng Huân chương Danh dự của Doolittle, Hạ sĩ David J. Thatcher (thợ máy/xạ thủ trong đội bay của Lawson) và Trung úy Thomas R. White (xạ thủ trong đội bay của Smith) được trao tặng Ngôi sao Bạc do nỗ lực của họ giúp đỡ những thành viên bị thương trong đội bay của Trung úy Lawson trốn thoát khỏi lực lượng Nhật Bản tại Trung Quốc. Tất cả 80 Raider được tặng thưởng Huân chương Chữ thập bay Dũng cảm và mỗi người trong số những người tử trận hay bị thương do cuộc không kích còn được tặng thưởng huy chương Trái tim Tím. Thêm vào đó, mỗi thành viên Doolittle Raider còn nhận được một phần thưởng của Chính phủ Trung Quốc.

Hai mươi tám thành viên đội bay ở lại tham gia các hoạt động bay tại Chiến trường Trung Hoa-Miến Điện-Ấn Độ, đa số trong hơn một năm, và có năm người tử trận. Mười chín thành viên đã tham chiến tại Bắc Phi trước khi quay trở về Hoa Kỳ, với bốn người bị giết và bốn người trở thành tù binh. Chín thành viên đã phục vụ tại Mặt trận Tây Âu, và một người đã tử trận. Tổng cộng có 12 người sống sót đã chết khi chiến đấu trong vòng 15 tháng sau cuộc không kích. Hai người còn sống được cho xuất ngũ khỏi lực lượng Không quân vào năm 1944 do những vết thương trầm trọng của họ.[2]

Liên đội Ném bom 17, đơn vị mà các thành viên Doolittle Raider được tuyển chọn, được nhận các đội bay bổ sung thay thế và được chuyển đến Căn cứ Không quân Barksdale vào tháng 6 năm 1942, nơi nó được chuyển sang một kiểu máy bay ném bom tầm trung khác là B-26 Marauder. Đến tháng 11 năm 1942 nó được bố trí ra nước ngoài đến Bắc Phi, nơi nó hoạt động tại Mặt trận Địa Trung Hải trong thành phần của Không lực 12 cho đến hết cuộc chiến tranh.

Chiến dịch Chiết Giang-Giang Tây

Vì hầu hết những chiếc B-25 trong cuộc Không kích Doolittle đã hạ cánh dọc theo bờ biển phía Đông Trung Quốc, và các phi công Mỹ đã nhận được sự giúp đỡ quan trọng của người dân quê nơi khu vực này để trốn thoát, phản ứng của quân Nhật chống lại người Trung Hoa đặc biệt gay gắt. Mọi sân bay trong phạm vi khu vực 20.000 dặm vuông nơi các phi công hạ cánh đều bị đào xới, chiến tranh vi trùng được đem ra sử dụng đối với thường dân và ước lượng có khoảng một phần tư triệu người dân thường đã bị giết.[31] Cuộc thảm sát trả đũa của quân Nhật thường được biết đến như Chiến dịch Chiết Giang-Giang Tây.